Xã hội Đức Quốc Xã

Giáo dục

Một đợt đốt sách diễn ra vào ngày 10 tháng 5 năm 1933 tại Berlin. Mục tiêu là những cuốn sách của các tác giả người Do Thái và phe tả.[302]

Đạo luật bài Do Thái thông qua năm 1933 đã khai trừ tất cả giáo viên, giảng viên đại học, công viên chức người Do Thái khỏi hệ thống giáo dục. Quốc xã yêu cầu hầu hết giáo viên phải thuộc về Nationalsozialistischer Lehrerbund (Liên đoàn Giáo viên Quốc gia Xã hội chủ nghĩa), và giảng viên đại học bị yêu cầu phải gia nhập Nationalsozialistischer Deutscher Dozentenbund (Liên đoàn Giảng viên Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa).[303][304] Các giáo viên phải thực hiện một lời tuyên thệ trung thành và phục tùng Hitler, và những ai không thể hiện đủ ra là mình luôn tuân theo những lý tưởng của đảng thường sẽ bị học sinh hoặc đồng nghiệp báo cáo lại rồi bị sa thải.[305][306] Lương thấp do thiếu kinh phí là nguyên nhân khiến nhiều giáo viên bỏ nghề. Số học sinh trung bình tại một lớp học đã tăng từ 37 người trong năm 1927 lên 43 người năm 1938 do tình trạng thiếu giáo viên.[307]

Bộ trưởng Nội vụ Wilhelm Frick, Bộ trưởng Giáo dục Bernhard Rust, và các cơ quan khác, là những đối tượng liên quan tác động đến nội dung của bài học và sách giáo khoa được chấp thuận dùng trong các trường tiểu học và trung học.[308] Những loại sách mà Quốc xã cho là không phù hợp sẽ bị loại bỏ khỏi thư viện.[309] Việc truyền bá, thấm nhuần tư tưởng Quốc xã trở nên bắt buộc từ tháng 1 năm 1934.[309] Những học sinh nào lựa chọn tương lai làm thành viên ưu tú của đảng sẽ được truyền bá tư tưởng từ năm 12 tuổi tại Trường Adolf Hitler (Adolf-Hitler-Schulen) đối với cấp tiểu học và Học viện Giáo dục Chính trị Quốc gia (Nationalpolitische Erziehungsanstalten) với cấp trung học. Việc truyền dạy tư tưởng Quốc xã cho những người sẽ nắm giữ cấp bậc cao trong quân đội trong tương lai được tiến hành tại NS-Ordensburgen (Thành trì Phẩm cấp).[310]

Kiểu chào Quốc xã trong trường học (1934). Trẻ em được truyền bá tư tưởng từ nhỏ.

Giáo dục tiểu học và trung học chú trọng đến sinh học chủng tộc, chính sách dân số, văn hóa, địa lý, và đặc biệt là rèn luyện thể chất.[311] Chương trình học của hầu hết các môn, bao gồm sinh học, địa lý, thậm chí cả số học, đều được sửa lại để tập trung vào chủng tộc.[312] Giáo dục quân sự là phần trung tâm của giáo dục thể chất, và vật lý được định hướng đến những đề tài có ứng dụng trong quân sự, như đạn đạo và khí động học.[313][314] Học sinh bị yêu cầu phải xem tất cả những phim do bộ phận phụ trách về học đường của Bộ Thông tin Quần chúng và Tuyên truyền chuẩn bị.[309]

Ở bậc đại học, sự bổ nhiệm đến những chức vụ hàng đầu là chủ đề của các cuộc tranh đấu quyền lực giữa Bộ giáo dục, Bộ đại học, và Liên đoàn Sinh viên Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa.[315] Bất chấp áp lực từ Liên đoàn và các Bộ chính phủ khác nhau, hầu hết giảng viên đại học đều không thay đổi giáo trình hay bài giảng trong thời Quốc xã.[316] Điều này đặc biệt rõ nét tại những trường nằm ở các khu vực mà Công giáo chiếm ưu thế.[317] Đầu vào đại học ở Đức đã giảm từ 104.000 sinh viên năm 1931 xuống 41.000 năm 1939. Tuy nhiên số đầu vào của các trường y khoa tăng mạnh; bởi những bác sĩ người Do Thái đã bị ép phải rời bỏ vị trí, nên sinh viên tốt nghiệp ngành này có triển vọng tìm được việc làm tốt.[318] Bắt đầu từ năm 1934, sinh viên đại học bị yêu cầu phải tham gia những buổi huấn luyện quân sự thường nhật và tốn thời gian do SA thực hiện.[319] Ngoài ra, tân sinh viên còn phải phục vụ sáu tháng trong trại lao động theo yêu cầu của Reichsarbeitsdienst (Ban Lao động Quốc gia), và với sinh viên năm nhất và năm hai quãng thời gian phục vụ là 10 tuần.[320]

Áp bức giáo hội

Bài chi tiết: Kirchenkampf

Tại thời điểm Quốc xã lên nắm quyền năm 1933, nước Đức có khoảng 65% số dân theo đạo Tin lành.[321] Dưới quá trình Gleichschaltung (chỉnh đốn, đồng bộ hóa, sắp xếp), Hitler nỗ lực tạo ra một Giáo hội Đế chế Quốc gia thống nhất từ 28 giáo hội Tin lành hiện tại,[322] với mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ các giáo hội ở Đức.[323] Ludwig Müller, một người thân Quốc xã, được cử làm Giám mục Đế chế; và Kitô hữu Đức, một nhóm lợi ích thân Quốc xã, nắm quyền kiểm soát giáo hội mới.[324] Quốc xã chống lại Cựu Ước vì nó có nguồn gốc Do Thái, và ngăn những người Do Thái cải đạo khỏi giáo hội của họ.[325] Mục sư Martin Niemöller hưởng ứng sự thành lập của Bekennende Kirche (tạm dịch: Giáo hội Xưng tội), từ đó một số giáo sĩ đã chống đối lại chế độ.[326] Vào năm 1935, khi hội nghị Giáo hội Xưng tội phản đối chính sách tôn giáo của Quốc xã, 700 mục sư của giáo hội đã bị bắt giữ.[327] Müller từ chức và Hitler bổ nhiệm Hanns Kerrl làm Bộ trưởng Giáo hội để tiếp tục nỗ lực kiểm soát đạo Tin lành.[328] Năm 1936, một đặc sứ của Giáo hội Xưng tội phản đối Hitler về việc đàn áp tôn giáo và chà đạp nhân quyền,[327] và thêm hàng trăm người nữa đã bị bắt giữ.[328] Dù vậy, giáo hội này vẫn tiếp tục phản kháng, và đến đầu năm 1937 Hitler từ bỏ sự kỳ vọng của mình về một giáo hội thống nhất.[327] Giáo hội Xưng tội bị cấm vào ngày 1 tháng 7 năm 1937. Neimoller bị bắt và giam cầm, lần đầu là tại trại tập trung Sachsenhausen, tiếp đến là ở Dachau.[329] Quốc xã đóng cửa các trường đại học thần học và bắt giữ thêm nhiều nhà thần học và các mục sư.[327]

Doanh trại tù nhân tại trại tập trung Dachau. Từ năm 1940 ở đây có thêm một khu dành riêng cho giáo sĩ chống lại chế độ[330]

Giáo hội Công giáo là đối tượng bị áp bức tiếp theo khi Quốc xã lên nắm quyền.[331] Hitler nhanh chóng đi tới xóa bỏ Công giáo Chính trị, vây bắt những công chức có mối liên hệ với Công giáo của Đảng Nhân dân BavariaĐảng Công giáo Trung ương. Hai đảng này, cùng với các đảng chính trị phi Quốc xã khác, chấm dứt tồn tại từ tháng 7.[332] Quốc xã đã ký với Tòa thánh Vatican Reichskonkordat (Giáo ước Đế chế) vào năm 1933, trong khi bản thân vẫn đang tiếp tục quấy nhiễu giáo hội tại Đức.[271] Giáo ước này yêu cầu chế độ phải tôn trọng sự tự do của các tổ chức Công giáo và ngăn cấm giáo sĩ tham gia vào hoạt động chính trị.[333] Hitler thường không thèm đếm xỉa đến giáo ước, ông cho đóng cửa tất cả những tổ chức Công giáo không có chức năng tôn giáo nghiêm chỉnh.[334] Giáo sĩ, nữ tu, và những lãnh đạo giáo dân là mục tiêu, với hàng ngàn người bị bắt giữ trong những năm tiếp theo, thường là bị vu về tội buôn lậu ngoại tệ hoặc là phi đạo đức.[335] Một vài lãnh đạo giáo dân tiêu biểu đã là mục tiêu của vụ ám sát Đêm của những con dao dài năm 1934.[336][337][338] Hầu hết các đoàn thanh niên Công giáo đều từ chối tự động giải thể và thủ lĩnh của Đoàn Thanh niên Hitler Baldur von Schirach đã khuyến khích đoàn viên của mình tấn công những thanh thiếu niên Công giáo trên đường phố.[339] Các chiến dịch tuyên truyền của Quốc xã cáo buộc giáo hội tham nhũng, hội họp công cộng bị hạn chế, và những ấn phẩm Công giáo phải qua kiểm duyệt. Trường học Công giáo bị yêu cầu bớt giảng dạy về tôn giáo và hình tượng thánh giá bị gỡ bỏ khỏi những tòa nhà quốc gia.[340]

Giáo hoàng Piô VI đã lén gửi thông tri "Mit brennender Sorge" đến Đức cho ngày Chủ nhật thụ hình năm 1937 và nó đã được đọc lên trên mọi tòa giảng. Nội dung thông điệp lên án sự thù địch có hệ thống của chế độ nhằm vào giáo hội.[335][341] Đáp trả lại, Goebbels tiếp tục đàn áp thẳng tay và tuyên truyền chống lại Công giáo. Đầu vào các trường học của giáo phái giảm mạnh, và đến năm 1939 tất cả những trường này đều bị giải thể hoặc chuyển đổi thành cơ sở công cộng.[342] Một trong những sự phản kháng sau này diễn ra vào ngày 22 tháng 3 năm 1942 khi những giám mục Đức phát đi một bức thư gửi con chiên về "Cuộc đấu tranh chống lại Kitô giáo và Giáo hội".[343] Tỉ lệ linh mục Công giáo bị cảnh sát kỷ luật trong thời Quốc xã là khoảng 30%.[344][345] Chế độ thiết lập nên một mạng lưới an ninh rộng lớn do thám hoạt động của giáo sĩ, và những linh mục thường xuyên bị tố cáo, bắt giữ, hoặc chuyển đến các trại tập trung – nhiều người bị đưa đến doanh trại dành cho giáo sĩ ở Dachau.[346] Tại vùng lãnh thổ Ba Lan sáp nhập năm 1940, Quốc xã phát động một chiến dịch đàn áp tàn bạo và dỡ bỏ có hệ thống Giáo hội Công giáo.[347][348]

Một giáo đường Do Thái giáo còn sót lại trong Đức Quốc Xã treo cờ Quốc Xã, tháng 4 năm 1942, không rõ địa điểm. Những người lính nhảy dù gốc Do Thái được tuyển chọn đang cầu nguyện dưới sự giám sát của cảnh sát.

Y tế

Những bức tượng đại diện cho thân hình lý tưởng được dựng lên trên các con đường ở Berlin vào dịp Thế vận hội mùa hè 1936.

Đức Quốc Xã có phong trào chống thuốc lá mạnh. Nghiên cứu tiên phong của Franz H. Müller năm 1939 đã chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hút thuốc lá và ung thư phổi.[349] Cơ quan Y tế Đế chế đã tiến hành các biện pháp nhằm nỗ lực hạn chế vấn đề này.[350] Hút thuốc bị cấm ở nhiều nơi làm việc, trên tàu hỏa, và giữa các thành viên trong quân đội khi đang làm nhiệm vụ.[351] Các cơ quan chính phủ cũng tiến hành kiểm soát những loại chất gây ung thư khác như a-mi-ăng và thuốc diệt hại.[352] Lọc sạch nguồn nước, loại bỏ chì và thủy ngân ra khỏi những sản phẩm tiêu dùng, và kêu gọi nữ giới thường xuyên đi xét nghiệm ung thư vú là một phần trong chiến dịch y tế công cộng tổng quát được Quốc xã thực hiện.[353]

Kể từ năm 1933, người Do Thái không còn là đối tượng được hưởng các chương trình bảo hiểm chăm sóc sức khỏe do chính phủ điều hành. Cũng trong năm 1933, bác sĩ Do Thái bị cấm không được điều trị cho những bệnh nhân có bảo hiểm của chính phủ. Đến năm 1937 bác sĩ Do Thái chỉ còn được chữa trị cho những bệnh nhân là người Do Thái, và sang năm tiếp theo Quốc xã đã tước đoạt toàn bộ quyền hành nghề y của họ.[354]

Các thí nghiệm y khoa, đa phần không có tính khoa học, bắt đầu được tiến hành trên cơ thể của những tù nhân trong trại tập trung từ năm 1941.[355] SS-Hauptsturmführer (Đại úy SS), bác sĩ Josef Mengele là nhân vật khét tiếng nhất về các thí nghiệm y khoa.[356] Trong quãng thời gian phục vụ tại trại tập trung Auschwitz, đã có rất nhiều nạn nhân là vật thí nghiệm của Mengele chết hoặc bị giết một cách có chủ ý.[357] Tù nhân sẵn có còn được dành cho các công ty dược phẩm mua lại để phục vụ mục đích thử nghiệm thuốc và những thí nghiệm khác.[358]

Vai trò của phụ nữ và gia đình

Nữ giới là nền tảng trong chính sách xã hội của Đức Quốc Xã. Những người Quốc xã chống lại bình đẳng giới, khẳng định rằng nó là sự sáng tạo của trí tuệ Do Thái, và thay vào đó họ ủng hộ một xã hội phụ quyền, trong đó phụ nữ Đức sẽ nhận thức rằng "thế giới là chồng, là gia đình, là những đứa con, và là ngôi nhà của mình".[237] Không lâu sau khi lên nắm quyền, Quốc xã đã giải tán hoặc sáp nhập các nhóm bình đẳng giới vào với Liên đoàn Phụ nữ Quốc gia Xã hội chủ nghĩa. Tổ chức này kết hợp các hội nhóm trên khắp đất nước để thúc đẩy bổn phận làm mẹ và các hoạt động trong gia đình. Phụ nữ được đề nghị tham gia các khóa học về nuôi con, may vá, nấu ăn.[359] Liên đoàn cho xuất bản NS-Frauen-Warte, tạp chí dành cho phụ nữ duy nhất được đảng Quốc xã phê chuẩn tại Đức.[360] Mặc dù có một vài khía cạnh tuyên truyền, nó chủ yếu vẫn là một tạp chí bình thường cho phụ nữ.[361]

Quốc xã khuyến khích nữ giới rời khỏi lực lượng lao động, đẩy mạnh việc tạo ra những gia đình đông đúc từ người phụ nữ phù hợp về chủng tộc thông qua một chiến dịch tuyên truyền. Người phụ nữ sẽ được tặng một huân chương bằng đồng, biết đến với tên gọi ''Ehrenkreuz der Deutschen Mutter'' (Thập tự Danh dự của Người mẹ Đức), nếu sinh được bốn đứa con, bạc với sáu, và vàng nếu sinh được từ tám đứa con trở lên.[359] Chế độ trao những khoản trợ cấp đến các gia đình đông người để giúp họ mua sắm đồ đạc tiện ích, chi tiêu trong gia đình, và đóng học phí cho con. Dù các biện pháp dẫn tới tỉ lệ sinh tăng, số gia đình có từ bốn con trở lên năm 1940 đã giảm 5% so với năm 1935.[362] Việc khai trừ nữ giới ra khỏi lực lượng lao động để giúp nam giới có thêm việc làm không đạt hiệu quả như dự kiến. Nữ giới là thành phần lao động chủ yếu trong các lĩnh vực như người hầu trong gia đình, dệt may, hoặc trong các ngành công nghiệp đồ uống và thực phẩm — những công việc không phù hợp với nam giới.[363] Triết lý của Quốc xã ngăn cấm thuê một số lượng lớn phụ nữ vào làm việc trong các nhà máy đạn dược ở giai đoạn hình thành nên chiến tranh, bởi vị trí đó dành cho những lao động nước ngoài. Sau khi cuộc chiến bùng phát, lao động nô lệ được sử dụng rộng rãi.[364] Vào tháng 1 năm 1943 Hitler ký một nghị định trong đó yêu cầu tất cả nữ giới tuổi dưới 50 đến trình diện để nhận những nhiệm vụ có tính hỗ trợ cho nỗ lực chiến tranh của Quốc xã.[365] Tiếp đó, nữ giới bị đổ vào làm trong lĩnh vực công và nông nghiệp. Đến tháng 9 năm 1944, đã có 14,9 triệu phụ nữ làm việc trong ngành sản xuất đạn dược.[366]

Những cô gái trẻ của Bund Deutscher Mädel (Liên đoàn Thiếu nữ Đức) đang thực hành rèn luyện thân thể, 1941

Chế độ Quốc xã không khuyến khích nữ giới theo đuổi giáo dục bậc cao. Những lãnh đạo Quốc xã giữ quan điểm bảo thủ về phụ nữ và tán thành ý niệm rằng công việc có tính lý thuyết và dựa trên lý trí là không quen thuộc với bản chất của người phụ nữ, vì họ được cho là vốn hành động theo cảm xúc và bản năng – như vậy, theo đuổi học tập và danh vọng sẽ chỉ "làm chệch họ khỏi bổn phận làm mẹ".[367] Một đạo luật thông qua vào tháng 4 năm 1933 đã giới hạn tỉ lệ nữ sinh được phép đăng ký vào đại học ở mức tối đa 10% so với số nam tham dự, điều này khiến đầu vào là nữ ở bậc đại học giảm mạnh.[368] Ở cấp trung học, đầu vào nữ đã giảm từ 437.000 năm 1926 xuống 205.000 năm 1937. Số nữ sinh được tuyển vào các trường sau trung học cũng giảm từ 128.000 năm 1933 xuống 51.000 năm 1938. Tuy nhiên, với việc nam giới phải gia nhập các lực lượng vũ trang trong chiến tranh, đến năm 1944 tỉ lệ nữ sinh đã chiếm phân nửa số đầu vào ở các hệ thống sau trung học.[369]

Quốc xã mong đợi phụ nữ sẽ trở nên mạnh mẽ, khỏe khoắn và năng động.[370] Nữ nông dân cường tráng làm công việc đồng áng và những đứa trẻ sinh ra khỏe mạnh được xem là lý tưởng; và nữ vận động viên điền kinh được ca ngợi vì làn da rám nắng do thường xuyên hoạt động ngoài trời.[371] Các tổ chức được thành lập để truyền bá nguyên tắc, tiêu chuẩn của Quốc xã. Từ ngày 25 tháng 3 năm 1939, tất cả trẻ em, thanh thiếu niên trên 10 tuổi đều buộc phải gia nhập Đoàn Thanh niên Hitler.[372] Bộ phận Jungmädelbund (Liên đoàn Thiếu nữ Trẻ) của đoàn dành cho bé gái tuổi từ 10 đến 14, và Bund Deutscher Mädel (BDM; Liên đoàn Thiếu nữ Đức) dành cho các cô gái tuổi từ 14 đến 18. Chương trình của BDM tập trung vào giáo dục thể chất, với các hoạt động như chạy, nhảy xa, nhào lộn, đi trên dây, diễu hành, và bơi lội.[373]

Chế độ Quốc xã xúc tiến một bộ quy tắc đạo đức liên quan đến vấn đề giới tính và không phản đối những người phụ nữ sinh con ngoài giá thú.[374] Tình trạng quan hệ giới tính phức tạp gia tăng trong chiến tranh, với những binh sĩ chưa kết hôn thường dính líu mật thiết với vài người phụ nữ cùng lúc. Điều tương tự cũng xảy ra với những phụ nữ đã kết hôn có mối liên hệ với binh lính, thường dân, và lao động nô lệ. Tình dục đôi khi được sử dụng như một công cụ để giành được thứ gì đó, ví dụ, việc làm tốt hơn từ lao động phổ thông nước ngoài.[374] Quốc xã ra lệnh phụ nữ Đức phải tránh những mối quan hệ thể xác với lao động nước ngoài, điều này được xem là vấn nạn nguy hiểm đối với dòng dõi Đức.[375]

Với sự chấp thuận của Hitler, Himmler mong đợi xã hội mới của chế độ Quốc xã sẽ không có cái nhìn kỳ thị với những trường hợp sinh ra bất hợp pháp, đặc biệt là những đứa trẻ có cha mẹ là thành viên SS, đối tượng đã được thẩm tra kỹ lưỡng về sự thuần khiết chủng tộc.[376] Himmler kỳ vọng mỗi thành viên SS sẽ có từ bốn đến sáu đứa con.[376] Hiệp hội Lebensborn (Nguồn Sống) được Himmler thành lập năm 1935 đã xây dựng nên một loạt nhà hộ sinh, địa điểm mà những bà mẹ đơn thân có thể nhận sự trợ giúp trong quá trình mang thai.[377] Trước khi được chấp nhận, cả hai cha mẹ đều phải trải qua một cuộc kiểm tra tính phù hợp của chủng tộc.[377] Những đứa trẻ sinh ra thường sẽ thuộc về gia đình SS.[377] Các căn nhà này cũng dành cho vợ của đảng viên Quốc xã và thành viên SS, thành phần đã nhanh chóng chiếm lĩnh hơn nửa số vị trí sẵn có.[378]

Chế độ Quốc xã thực thi nghiêm khắc các đạo luật ngăn cấm phá thai, ngoại trừ những lý do về mặt y khoa. Số trường hợp phá thai đã giảm từ 35.000 ca/năm trong giai đoạn đầu thập niên 1930 xuống 2.000 ca/năm trong cuối thập niên. Vào năm 1935 một đạo luật thông qua đã cho phép nạo phá phai đối với những trường hợp có lý do liên quan đến thuyết ưu sinh.[379]

Môi trường

Hermann Göring, một người đam mê săn bắn.

Xã hội Quốc xã có những thành phần hỗ trợ quyền lợi động vật, ở đó có nhiều người yêu thích vườn thú và các loài hoang dã.[380] Chính quyền đã tiến hành một số biện pháp để bảo vệ môi trường và động vật. Vào năm 1933, những người Quốc xã ban hành một đạo luật bảo vệ động vật khắt khe, nó có tác động đến việc phân loại những loài được phép nghiên cứu y tế.[381] Tuy nhiên luật này chỉ được thực thi một cách lỏng lẻo. Bất chấp lệnh cấm giải phẫu động vật sống, Bộ Nội vụ vẫn sẵn sàng trao giấy phép cho những thí nghiệm trên động vật.[382]

Bộ Lâm nghiệp Đế chế do Göring đứng đầu thi hành những quy tắc trong đó yêu cầu cán bộ lâm nghiệp trồng nhiều loại cây để bảo đảm môi trường sống phù hợp cho động vật hoang dã.[383] Chế độ ban hành Luật Bảo vệ Thiên nhiên Đế chế vào năm 1935 nhằm bảo vệ cảnh quan thiên nhiên trước sự phát triển quá mức của nền kinh tế. Luật này cho phép sung công đất thuộc sở hữu tư để tạo ra những khu bảo tồn thiên nhiên và hỗ trợ cho việc lập các kế hoạch dài hạn.[384] Chính quyền thực thi những nỗ lực một cách hời hợt để hạn chế tình trạng ô nhiễm không khí, và việc thi hành các đạo luật trở nên ít có tính bắt buộc khi chiến tranh nổ ra.[385]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đức Quốc Xã http://www.dipublico.com.ar/english/agreement-betw... http://www.khatyn.by/en/genocide/expeditions/ http://www.collectionscanada.gc.ca/obj/s4/f2/dsk3/... http://www.amazon.com/The-Third-Reich-History-Memo... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/414633/M... http://www.nathaninc.com/sites/default/files/Pub%2... http://www.thirdreichruins.com/index.htm http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,9... http://www.warsawuprising.com/paper/wrobel1.htm http://www.bundesarchiv.de/benutzung/zeitbezug/nat...